Như chúng ta đã biết, Cương lĩnh, đường lối của Đảng hình thành trên nền tảng lý luận Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng vẻ vang của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam phải xây dựng, phát triển, bổ sung, hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối phù hợp với tình hình, thực tiễn của đất nước để bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn và lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, để hoàn thành được sứ mệnh ấy là cả một quá trình đấu tranh bền bỉ, lâu dài, kiên quyết, trí tuệ, sáng tạo, dũng cảm và không khoan nhượng để bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, trước sự chống phá của các thế lực thù địch. Trong phạm vị tham luận này, chỉ tập trung nhấn mạnh quá trình đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh, đường lối ở một số thời điểm với những nét khái quát nhất.
Ngược dòng lịch sử, ngay từ khi mới thành lập, ngày 3/2/1930, với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắt tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt, đã hợp thành
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta, vạch rõ mục đích, động lực, phương pháp cách mạng và những khẩu hiệu đấu tranh cơ bản. Đó là con đường cứu nước đúng đắn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện tư tưởng kết hợp đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, dân tộc và quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Với Cương lĩnh đầu tiên ấy, các thế lực thù địch về chính trị và ý thức hệ đã tìm mọi cách để chống phá, xuyên tạc, phủ định tính đúng đắn của Cương lĩnh và thực hiện những mưu đồ đen tối do chúng tự đặt ra.
Ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, ở Việt Nam xuất hiện thế lực
tơrôtxkit (những người theo chủ nghĩa Tơrốtxky - chủ nghĩa “tả” khuynh chống lại lý luận của V.I.Lê nin) gồm Hồ Hữu Tường, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch…. Nhóm này đã đưa ra khẩu hiệu nhằm lừa bịp, lôi kéo quần chúng chống lại đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản lập Mặt trận dân chủ, đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ; phản đối Đảng Cộng sản lập Mặt trận dân chủ với luận điệu giai cấp vô sản không cần lo cho các giai cấp khác. Nhóm
tơrôtxky còn đưa ra chủ trương ở nước thuộc địa phải làm ngay cách mạng vô sản, không cần làm cách mạng tư sản dân quyền (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân).
Để phê phán, chống lại những luận điệu sai trái đó năm 1937, Tổng Bí thư Hà Huy Tập viết tác phẩm
Tơrốtxky và phản cách mạng. Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ viết tác phẩm
Tự chỉ trích. Với hai tác phẩm quan trọng này, đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối, chính sách của Đảng phù hợp với thực tiễn Việt Nam và lợi ích của nhân dân, phê phán thủ đoạn cơ hội chính trị của các phần tử
tơrốtxkit. Ngoài ra, tác phẩm
Tự chỉ trích còn làm rõ kinh nghiệm đấu tranh chống các luận điệu sai trái, thù địch và sự mơ hồ, vô nguyên tắc của một số đồng chí trong Đảng. Cũng trong năm 1939, mặc dù đang còn hoạt động ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có thư gửi các đồng chí trong nước với những từ ngữ hết sức đanh thép:
“Đối với bọn tờrốtxkít, không thể có thoả hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị”[1].
Đầu những năm 40 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều biến động bởi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, Đảng ta đã nhanh chóng, kịp thời đưa ra những chủ trương mới lãnh đạo toàn dân chống lại bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật. Mặt khác, phải có những chủ trương để chống lại những phần tử A.B (đây là bọn khiêu khích làm tay sai cho giặc đế quốc, đội lốt cộng sản chui vào Đảng để dò xét và phá hoại Đảng. A. B còn được hiểu là phản Bôn sê vích, phản cộng). Đứng trước âm mưu và thủ đoạn đó, ngày 25/12/ 1944, trên báo
Cờ giải phóng, Tổng Bí thư Trường Chinh viết bài “Kinh nghiệm công tác, làm thế nào để nhận biết một phần tử A.B?”
Mùa thu năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời, đường lối chiến lược của Đảng ta lúc này là xây dựng chính quyền nhân dân, củng cố nền độc lập thống nhất. Đất nước đứng trước hoàn cảnh vô cùng khó khăn về chính trị, kinh tế, văn hoá, đặc biệt là phải có những sách lược đúng đắn để chống lại âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động muốn xoá bỏ thành quả cách mạng mà toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phải đấu tranh, hy sinh gian khổ. Trong lịch sử của dân tộc, chưa bao giờ vào cùng một thời điểm chúng ta phải đối chọi với nhiều kẻ thù như vậy. Đảng phải lựa chọn sách lược thích hợp, lúc thì tạm hoà với quân Tưởng ở miền Bắc để tập trung sức lực chống thực dân Pháp ở Nam bộ, lúc lại hoà hoãn, nhân nhượng với Pháp để thúc đẩy quân Tưởng về nước. Chủ trương của Đảng và Hồ Chủ tịch là “Hoà để tiến” và chúng ta đã ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 với Pháp.
Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn và thực tiễn của cách mạng Việt Nam là một minh chứng hùng hồn không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, các thế lực thù địch và phản động đã kích động nhân dân, vu cáo Nhà nước cách mạng và Hồ Chí Minh là bán nước cho Pháp. Đảng ta phải làm công tác tư tưởng giải thích cho nhân dân hiểu rõ chính sách đúng đắn, đồng thời phê phán luận điệu và hành vi kích động, phản động. Thực dân Pháp âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi nước Việt Nam. Đồng bào Nam Bộ thật sự lo lắng về số phận của Nam Bộ. Nắm rõ tình hình, Đảng ta đã kịp thời giải thích cho đồng bào hiểu, đặc biệt trước khi lên đường thăm Pháp theo lời mời của Chính phủ Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào Nam Bộ và khằng định đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”, “Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí Minh không phải là người bán nước”
[2].
Những năm 60 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế gặp nhiều khó khăn do sự tác động tiêu cực của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội “tả” và hữu khuynh. Đứng trước tình hình đó, Đảng ta đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế, chân thành đoàn kết, trung thành với chủ nghĩa Mác- Lê-nin. Trong bối cảnh đó, một số người thiếu bản lĩnh đã làm trái đường lối của Đảng, gây chia rẽ, lôi kéo phe nhóm theo nước này để chống lại nước kia. Quan điểm sai trái đó đã bị phê phán và khắc phục tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (tháng 12/1963), nhằm bảo đảm sự thống nhất trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành chiến tranh cách mạng chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Năm 1968, nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh C.Mác, đồng chí Trường Chinh viết tác phẩm nổi tiếng: Đời đời nhớ ơn Các Mác và đi theo con đường Các Mác đã vạch ra. Với tác phẩm này đã góp phần quan trọng phê phán đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái về tư tưởng và lý luận, bảo vệ đường lối của Đảng và con đường đúng đắn của cách mạng Việt Nam, bảo vệ giá trị khoa học, cách mạng và sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác- Lê-nin.
Mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, Tổ quốc sạch bóng quân thù, Đảng ta tiếp tục sự nghiệp cách mạng mới nhằm khắc phục hậu quả nặng nề của 21 năm ròng rã bởi chiến tranh. Công cuộc kiến thiết, xây dựng lại đất nước phải đứng trước vô vàn những khó khăn, thử thách, trong đó khó khăn lớn nhất là phải tìm tòi, khảo nghiệm, hoạch định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Quá trình tìm tòi, khảo nghiệm suốt 10 năm để hoạch định đường lối đổi mới với những bước đi ban đầu, Đảng ta đã có những thành công. Tuy nhiên, khó khăn cũng không phải là ít. Lợi dụng những khó khăn của các nước xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch rêu rao, tuyên truyền rằng chủ nghĩa xã hội đã hết thời, đòi từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa; đòi chấm dứt vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên chính trị và đa đảng. Đứng trước tình hình đó, Đảng ta đã kiên quyết, dứt khoát bác bỏ những quan điểm sai trái, kiên định con đường đã chọn trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991),
và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) là minh chứng về sự phát triển đường lối, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, có ý nghĩa quyết định để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp đổi mới của đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam ngày càng phát triển vượt bậc và được cộng đồng các nước trên thế giới thừa nhận. Nhận định của Word BanK được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhắc lại trong một sự kiện cuối năm: “Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang toả nắng ở Việt Nam”. Nhận định cụ thể ấy trên cơ sở trong năm 2019, GDP Việt Nam tăng 7,02 %, vượt chỉ tiêu Quốc hội giao (trong khoảng 6,6-6,8%) và cũng cao hơn dự báo của nhiều tổ chức quốc tế. Đây cũng là mức tăng trưởng thuộc hàng cao nhất thế giới và khu vực đặt giữa bối cảnh kinh tế thế giới đang đối mặt với nhiều rủi ro và bất ổn gia tăng.
Thực tế đã rõ ràng, vậy mà các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tuyên truyền những quan điểm sai trái đòi Việt Nam từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa; đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ vai trò lãnh đạo và cầm quyền, thực hiện đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng đối lập; các thế lực thù địch còn tiếp tục tăng cường chiến lược “Diễn biến hoà bình”; họ còn cho rằng ở Việt Nam không có dân chủ, quyền con người bị vi phạm. Họ luôn luôn lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo để đả kích sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch còn tuyên truyền xuyên tạc rằng ở Việt Nam chỉ đối mới kinh tế mà không đổi mới chính trị…Thật khó kể hết những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật hết sức tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch. Thủ đoạn đó nó tác động đến các giai cấp, tầng lớp, và một bộ phận cán bộ, đảng viên dẫn tới làm trái đường lối, Cương lĩnh của Đảng và “tự diễn biến” “tự chuyển hoá”.
Trên đây mới chỉ là những nét khái quát nhất quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đấu tranh bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch chống phá Cương lĩnh, đường lối của Đảng từ năm 1930 đến nay. Quá trình ấy giúp mỗi chúng ta nhận thức được rằng, từ khi Đảng ta mới ra đời đã phải đấu tranh kiên trì, bền bỉ, vượt qua mọi khó khăn để kiên quyết bảo vệ Cương lĩnh, đường lối. Những thành quả của cách mạng Việt Nam có được vào mùa xuân năm 2020- Đảng ta tròn 90 năm tuổi chính là kết quả của cuộc đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh, đường lối. Thực tiễn cách mạng vẻ vang và rất đỗi tự hào ấy, Đảng ta có thêm được những kinh nghiệm hết sức quý báu, đó là phải xem nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh, đường lối là nhiệm vụ xuyên suốt; sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân để kẻ địch không có cơ hội lôi kéo, xúi giục; đấu tranh để bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch là cuộc đấu tranh không khoan nhượng. Kinh nghiệm có ý nghĩa sống còn nữa đối với Đảng chính là làm tốt công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và những kinh nghiệm ấy đã được hiện thực hoá từ tác phẩm
Tự chỉ trích của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, tự phê bình tại Đại hội VI của Đảng, Nghị quyết TW 4, Khoá XI, XII và Nghị quyết số 35 của Bộ Chính trị.
Nhân kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 03/02/1930 - 03/02/2020, thay cho lời kết luận, chúng tôi xin nêu lên tinh thần mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã nhấn mạnh, đó là xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hoàn thiện hệ thống chính trị hiện nay chính là nội dung và giải pháp cơ bản làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị./.