Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu của Đảng. Thực hiện Cương lĩnh năm 1930, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sau chiến tranh, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Đảng đã tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng XHCN, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, trước những biến động của tình hình quốc tế và những âm mưu của các thế lực thù địch chống lại Việt Nam, Đảng ta nhận thấy rằng đổi mới là đòi hỏi bức thiết của tự thân trong nước, có ý nghĩa sống còn, đồng thời cũng là xu thế của thời đại. Chính tư duy lạc hậu của chúng ta đã cản trở phát triển kinh tế, khiến đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Vậy thì muốn phát triển kinh tế ta phải đổi mới tư duy lạc hậu, bảo thủ, đổi mới "nhận thức và cách suy nghĩ".
Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết sáng kiến từ thực tiễn của nhân dân, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới. Tại Đại hội VI (1986 ) đặc biệt là sau Hội nghị TW 6, khóa VI, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đảng ta đã phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và khẳng định việc thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần; đẩy mạnh sản xuất hàng hóa; đảm bảo cho các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh hợp pháp; thừa nhận nền kinh tế nước ta có 2 đặc trưng là tính kế hoạch và quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1987-1988, tình hình kinh tế-xã hội nước ta vẫn trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng, giá cả leo thang, lạm phát vẫn ở mức cao, lương thực và hàng tiêu dùng thiếu nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục tình trạng đó, vấn đề cấp bách đặt ra là phải thể chế hoá, cụ thể hoá đường lối đổi mới thành pháp luật và các chính sách, chủ trương, giải pháp cụ thể để hiện thực hoá đường lối, quan điểm của Đảng. Ngày 14/11/1987, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 217/HĐBT về quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế quốc doanh. Ngày 29/12/1987, Quốc hội khoá VIII thông qua Luật Đầu tư nước ngoài hiệu lực từ ngày 01/01/1988. Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10/NQ-TW ngày 05/4/1988 (khoán 10) về đối mới quản lý kinh tế nông nghiệp, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân và xác định vai trò kinh tế hộ nông dân. Cuối năm 1988, thực hiện bù giá vào lương, xoá bỏ chế độ phân phối bao cấp, tem phiếu. Ngày 29/3/1989, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đề ra 12 chủ trương chính sách lớn, cụ thể hoá những quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, giải quyết nhiều vấn đề bức bách về kinh tế, xã hội thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, chống lạm phát, đề ra những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, giữ vững con đường và mục tiêu XHCN, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước.
Nhờ những chính sách, giải pháp, nguyên tắc đó mà công cuộc đổi mới phát triển đúng hướng và từ năm 1989 có được những thành tựu bước đầu. Năm 1989 Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới. Chính trị xã hội ổn định, vượt qua thách thức do tác động của khủng hoảng và sự sụp đổ của chế độ XHCN ở các nước Đông Âu. Trước bối cảnh mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống XHCN thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng XHCN. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Dưới ngọn cờ của Cương lĩnh năm 1991, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vững vàng vượt qua nhiều sóng gió, thử thách, giành nhiều thắng lợi trong công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, đưa đất nước ta tiếp tục từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua hơn 25 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục phát triển. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1996); vượt qua khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (1997-1998); khắc phục có hiệu quả ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay; thực hiện các Kết luận của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, bước đầu thực hiện được mục tiêu: kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển, đứng vào nhóm các nước có thu nhập trung bình. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững. Vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.
Hiện nay, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc với đặc điểm nổi bật của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thử thách nhưng sẽ có những bước tiến mới. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là con đường mới mẻ, chưa có tiền lệ, chúng ta phải vừa đi vừa dò đường, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm; không ít vấn đề mới nảy sinh cần được nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Bối cảnh quốc tế và thực tiễn cách mạng nước ta đòi hỏi Đảng ta phải giữ vững định hướng, đồng thời bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 cho phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Với tinh thần đó, Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) đã quyết định phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 cho phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới (bổ sung phát triển năm 2011). Đồng thời, Đại hội XI của Đảng cũng đã đề cập đến nhiều vấn đề, hiện trạng của nước ta hiện nay. Cơ sở hạ tầng là một trong những trở ngại lớn nhất của phát triển kinh tế tại Việt Nam. Chất lượng tăng trưởng thấp thể hiện qua chỉ số ICOR cao, cơ cấu trong nền kinh tế thiếu tính bền vững và nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Một trong những trở ngại của nền kinh tế Việt Nam là thiếu nguồn nhân lực có trình độ. Chất lượng nhân lực không cao và chậm áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ khiến cho năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh của hàng hóa kém, giá trị gia tăng của các sản phẩm chưa cao. Nguồn nhân lực giá rẻ không còn được xem là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất là ở khu vực nông thôn trở thành một rào cản phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu quốc gia như thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại đến năm 2020. Mặt khác tâm lý thỏa mãn với những kết quả đạt được bước đầu trong công cuộc đổi mới (thoát khỏi nhóm các nước nghèo) là nguy cơ Việt nam mắc phải bẫy thu nhập trung bình mà rất nhiều quốc gia khác mắc phải. Bên cạnh đó tệ tham nhũng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Vì vậy chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn thấp và chưa đạt được độ bền vững. Chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, tính hiệu quả của kinh tế thấp, đồng thời, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu. Vì vậy Nghị quyết TW 3 khóa XI đã tập trung vào vấn đề tái cơ cấu lại nền kinh tế, đặc biệt là bộ phận kinh tế nhà nước (cả hệ thống ngân hàng và các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước) nhằm minh bạch hóa tài chính của kinh tế Nhà nước, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh kinh tế Nhà nước và của nền kinh tế. Nghị quyết TW 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay” nhằm chỉ ra những tồn tại, hạn chế cần kịp thời tháo gở nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì thế cần phát huy việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo Cương lĩnh của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng để Cương lĩnh của Đảng thực sự là ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta.
Th.s Lê Thu Huyền
Khoa XDĐ
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn