Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, nhà văn hoá lớn của nhân loại đã đi xa, nhưng đã để lại cho chúng ta tài sản tinh thần to lớn, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh mang giá trị nhân văn cao cả. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, với nội dung cốt lõi, xuyên suốt là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tất cả vì mục đích giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương sáng về sự cống hiến hy sinh cho độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng nhân văn là một nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị, là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển con người toàn diện trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Ở bài viết này, người viết chỉ đề cập một số nội dung cơ bản trong tư tưởng nhân văn của Người.
Nhân văn chính là những tư tưởng, quan điểm, tình cảm khi bàn về các giá trị sống của con người như phẩm giá, tình cảm, trí tuệ, vẻ đẹp, sức mạnh. Xét thực chất nhân văn là giá trị mang tính phổ quát, hướng con người đến các giá trị chân- thiện - mỹ.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là “
toàn bộ suy nghĩ và tình cảm đã chi phối suốt cả cuộc đời của Người, một cuộc đời đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân, cho sự giải phóng của cả nhân loại và của mỗi con người”
[1].
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bắt nguồn từ những truyền thống tốt đẹp được hun đúc trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam như sự nhân ái, khoan dung và lòng yêu thương con người sâu sắc. Trên cơ sở truyền thống nhân nghĩa của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại cùng với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản đã làm cho tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có bước chuyển hoá về chất, nâng lên tầm cao mới trở thành tư tưởng nhân văn cộng sản.
Thứ nhất, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là hướng tới giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người
Đây là đặc trưng cơ bản, xuyên suốt và nhất quán mang tính nhân văn trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Muốn giải phóng con người thì trước hết phải giải phóng dân tộc. Bởi vì, giải phóng con người không thể tách rời giải phóng dân tộc, không thể có con người tự do trong đất nước bị nô lệ, lầm than. Vì vậy, tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc khi bắt gặp “Những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin” đăng trên báo L Humanite. Người đã nhận thấy đây là con đường duy nhất của cách mạng Việt Nam. Người viết “
Luận cương của Lênin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang đứng trước quần chúng đồng bào: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”
[2].
Theo Hồ Chí Minh, chỉ có độc lập dân tộc thực sự mới có nền hoà bình chân chính, mới có độc lập dân tộc hoàn toàn. Không thể có độc lập dân tộc thực sự khi đất nước vẫn còn sự lệ thuộc. Người khẳng định, toàn thể nhân dân Việt Nam kiên quyết đấu tranh giành cho được độc lập, khi giành được độc lập dân tộc thì cả nước phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì đất nước độc lập mà người dân không được hưởng tự do, hạnh phúc, thì độc lập ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Người dân chỉ biết rõ giá trị của độc lập, tự do khi mà họ được ăn no, mặc ấm. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất có thể giải phóng triệt để người dân khỏi thân phận nô lệ, bất công xã hội, nghèo đói, Người đã nhiều lần khẳng định: “
Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”[3].
Để thực sự giải phóng được nhân dân lao động ở nước ta, theo Hồ Chí Minh: “
Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân, đối với thủ công nghiệp. Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống vui tươi hạnh phúc. Chúng ta lại phải tiến hành những nhiệm vụ đó trong điều kiện đặc biệt của nước ta, nghĩa là trên cơ sở của một xã hội vừa thoát khỏi ách thực dân phong kiến, hết sức lạc hậu”
[4]. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang trong bản thân nó bản chất nhân văn.
Thứ hai, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện lòng yêu thương con người sâu sắc.
Yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, nhân văn của nhân loại và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Tình yêu thương ấy trước hết đối với những người lao động, những người nghèo khổ, những người bị áp bức bóc lột. Trải qua quá trình tìm đường cứu nước, đi bốn biển năm châu đặt chân đến gần 30 nước, Người rút ra kết luận trên thế giới chỉ có hai loại người: người bóc lột và người bị bóc lột. Người đi sâu phân tích tìm ra nguyên nhân gây ra nỗi thống khổ của nhân dân lao động do áp bức, bóc lột giai cấp và áp bức dân tộc, chủ nghĩa đế quốc như con đỉa hai vòi, một vòi hút máu giai cấp vô sản ở nước chính quốc và một vòi hút máu ở các nước thuộc địa.
Yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có sự phân biệt quốc tịch, màu da, châu lục, dù là người da vàng, da đen hay da trắng nếu là nhân dân lao động, những người bị áp bức, bị bóc lột thì Bác vẫn luôn dành tình cảm yêu thương. Bởi theo Người, họ là những người bạn “cùng khổ”, đều là “anh em”.
Yêu thương, quý trọng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không dừng lại ở sự đồng cảm chia sẻ, mà đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chân chính. Tình yêu thương ấy luôn gắn với những hành động cụ thể, không chỉ giới hạn trong phạm vi dân tộc mà còn vươn tới tầm nhân loại. Vì vậy, chỉ có con đường cách mạng vô sản mới có thể đấu tranh để giải phóng những người lao động, những người bị áp bức bóc lột khỏi ách nô lệ, khỏi thân phận trâu ngựa để có cuộc sống thật sự đúng nghĩa là một con người. Đó là tình yêu thương, tính nhân văn sâu sắc mà nhân loại đã ngợi ca “
Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”
[5]
Thứ ba, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa động lực cho sự phát triển.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “
Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn, nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người”. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự thống nhất giữa con người cá nhân và con người xã hội. Mỗi người là một cá nhân, một chỉnh thể đơn nhất mang những phẩm chất riêng, vừa mang những giá trị, đặc điểm chung của cộng đồng xã hội, đó là mối quan hệ biện chứng thống nhất giữa cái chung và cái riêng.
Để lý giải mối quan hệ cái chung - cái riêng, Bác Hồ đã nói: “
Mỗi người đều có hoàn cảnh riêng, lợi ích riêng, nếu cái riêng không xâm hại lợi ích tập thể thì không phải là xấu, cần được bảo vệ. Chúng ta chống chủ nghĩa cá nhân nhưng không giày xéo lên lợi ích cá nhân”[6]. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa xã hội không hề phủ nhận cá nhân, chà đạp lên lợi ích cá nhân, mà ngược lại luôn tôn trọng lợi ích cá nhân, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân. Người luôn sâu sát, tìm hiểu và quan tâm đến mỗi con người cụ thể, thấu hiểu lợi ích của mỗi giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp khác nhau, để phát huy được thế mạnh, năng lực, đồng thời khắc phục những hạn chế của các giai tầng này.
Bác xem con người vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển của xã hội, tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân, bởi lẽ Người đã thấy được sức mạnh vĩ đại của nhân dân. Nhiều lần Người khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp “phải đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Sau khi giành được độc lập, Người khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra…
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”
[7]
Trong bản Di chúc, Người còn căn dặn thêm
“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Điều này thể hiện tính nhân văn, vì con người, do con người và cho con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi suy nghĩ, mỗi hành động của Bác đều bắt nguồn từ lòng yêu thương con người và đấu tranh cho hạnh phúc của con người. Như vậy, từ quan niệm về con người, đến con người vừa là mục tiêu giải phóng, vừa là động lực của cách mạng, chúng ta thấy được tấm lòng bao dung, độ lượng, niềm tin, tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao mới trở thành tư tưởng chỉ đạo Đảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào năm 1986 đã mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiều chủ trương, chính sách liên quan đến xây dựng phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng con người mới được thực hiện. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định:
“Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế”[8]. Chính vì vậy, chúng ta đã huy động được mọi nguồn lực, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nên đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: “
Phát huy tối đa nhân tố con người, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”
[9]
Như chúng ta đã biết, năm 2020 và 2021, đại dịch Covid-19 đã và đang hoành hành trên 200 nước và vùng lãnh thổ. Khi đại dịch đi qua, dù ở nước phát triển hay đang phát triển, dù nước giàu hay nghèo, dù thể chế chính trị cộng hoà hay dân chủ đều phải có những chính sách và những biện pháp chống dịch phù hợp với điều kiện. Thực tế đã chứng minh, dù là quốc gia phát triển, với các thiết bị y tế hiện đại thì cũng không ngăn chặn được số người nhiễm lên đến hàng chục triệu người và số người chết cũng không dưới hàng trăm ngàn người. Trong khủng hoảng vì đại dịch Covid-19 này, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách và giải pháp kịp thời nhằm đảm bảo quyền được sống của mỗi người dân. Thật cảm động khi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã ra lời kêu gọi toàn dân đoàn kết chống dịch, Thủ tướng đã khẳng định quyết tâm “
chống dịch như chống giặc” với mục tiêu “
không có ai bị bỏ lại phía sau”. Chính sự quyết tâm và những giải pháp linh hoạt phù hợp nên đất nước ta đã đạt được mục tiêu kép vừa phát triển kinh tế vừa bảo vệ sức khỏe của nhân dân. Điều này đã thể hiện tính nhân văn và bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa - một chế độ xã hội tất cả vì con người, vì quyền được sống - quyền cơ bản, đầu tiên và thiêng liêng nhất của mỗi con người.
Có thể khẳng định tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng nhân văn của Người chứa đựng nhiều giá trị vừa mang tính giai cấp, tính dân tộc và thời đại hướng tới giải phóng con người, vì hạnh phúc của con người.
Mỗi năm, cứ đúng vào tháng 5 - có ngày sinh nhật Bác, là dịp để chúng ta tìm hiểu, khẳng định lại một lần nữa tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta để xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, giàu mạnh và ngày càng phát triển phồn vinh. Mượn lời thơ của nhà thơ Tố Hữu để kết thúc bài viết:
“Ôi lòng Bác vậy cứ thương ta.
Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa.
Chỉ biết quên mình cho hết thảy,
Như dòng sông chảy nặng phù sa”.
, Văn phòng Trung ương Đảng, HN.
, NXBCTQG, HN, Tập 1.
4.Hồ Chí Minh toàn tập (2000), NXBCTQG, HN Tập 5.
5.Hồ Chí Minh toàn tập(2011) Nxb CTQG, HN, T12.
6. Hội đồng Lý luận Trung ương (2005),
, NXBCTQG, HN.
7. PGS.TS Phạm Ngọc Anh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
8. PGS.TS Doãn Thị Chín, Học viện Báo chí và Tuyên truyền,