Nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên năng suất lao động từ vận dụng quan điểm của C. Mác về các nhân tố tác động đến năng suất lao động

Thứ hai - 24/06/2024 09:01
 
TS. Thái Thị Hồng Minh
Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị Lê Duẩn tỉnh Quảng Trị
       Năng suất lao động (NSLĐ) đóng vai trò quan trọng trong nâng cao năng lực cạnh tranh - động lực của tăng trưởng kinh tế. Theo đánh giá của Tổ chức Năng suất Châu Á (Asian Production Organization - APO), hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ Châu Á đều quan tâm đến gia tăng năng suất như là một yếu tố của sự phát triển kinh tế bền vững và xem đó là một trong những mục tiêu của phát triển kinh tế [1]. Việt Nam trong cuộc đua phát triển kinh tế có nguy cơ bỏ lại phía sau nếu không cải thiện năng suất, nhất là NSLĐ. Dựa trên vận dụng, phát triển quan điểm của C. Mác về các nhân tố tác động đến NSLĐ, bài viết đề xuất nâng cao năng lực cạnh tranh dựa trên NSLĐ đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
       Quan điểm của C.Mác về các nhân tố tác động đến năng suất lao động
       C.Mác khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã nhận định: “sức sản xuất của lao động được quyết định bởi rất nhiều tình hình” [2]. “Tình hình” theo C.Mác chính là những nhân tố tác động đến NSLĐ, bao gồm:
       Thứ nhất, trình độ khéo léo của người lao động. 
       Theo C. Mác, người lao động có trình độ thành thạo càng cao, thì NSLĐ càng cao và không chỉ xảy ra đối với những người lao động thủ công, mà còn xảy ra đối với những người lao động bằng máy móc. Bởi tốc độ làm việc của máy móc rất cao, đòi hỏi người lao động phải có trình độ thành thạo tương ứng, thì mới theo kịp được tốc độ làm việc của máy móc. Đồng thời, mức độ thành thạo của người lao động sẽ được nâng lên khi người lao động được đào tạo hoặc được làm một công việc nào đó thường xuyên, do khi thường xuyên làm một việc sẽ giúp người lao động “giảm bớt việc tiêu dùng sức lao động một cách không sản xuất” [3]. Điều này giúp loại bỏ những động tác thừa, làm cho hoạt động của người lao động trở nên liền mạch và ít tiêu tốn thời gian hơn. Theo đó, với độ dài ngày lao động như nhau, trình độ thành thạo của người lao động càng cao, thì NSLĐ càng tăng.
       Thứ hai, mức độ phát triển của khoa học và khả năng áp dụng khoa học vào quá trình sản xuất. 
       Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác nhận định, khoa học tách ra khỏi lao động trở thành “tiềm lực sản xuất độc lập” [4]. Ứng dụng khoa học vào quá trình sản xuất với biểu hiện rõ nét là việc đổi mới quy trình sản xuất và đưa ngày càng nhiều máy móc vào quá trình sản xuất. C. Mác cho rằng, “máy móc là phương tiện mạnh nhất để tăng NSLĐ” trong hệ thống các nhân tố tác động đến NSLĐ [5]; “máy móc chứa đựng lao động ít bao nhiêu, thì giá trị mà chúng chuyển vào sản phẩm lại càng ít bấy nhiêu” [6]. Do đó, nếu sử dụng ngày càng nhiều máy móc với quy mô ngày càng lớn kết quả là “… chẳng những sản xuất ra đủ bảo đảm sự tiêu dùng dồi dào cho tất cả mọi người trong xã hội và gây một quỹ dự trữ quan trọng...” [7].
       Thứ ba, sự phân công lao động và sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất. 
       C. Mác cho rằng phân công lao động chính là “phương tiện để sản xuất ra được nhiều hàng hóa hơn với một số lượng lao động như cũ” [8], hay phân công lao động chính là một nhân tố quan trọng nâng cao NSLĐ. Để nâng cao NSLĐ, theo C. Mác, không chỉ có phân công lao động, mà còn phải gắn phân công lao động với kết hợp xã hội trong quá trình sản xuất. Theo đó, phải đưa người lao động đơn lẻ, làm việc trong những khâu, những bước khác nhau vào một không gian chung, có sự liên kết với nhau trong quá trình sản xuất. Sự kết hợp không chỉ xảy ra ở các công trường thủ công, mà ngay cả khi bước vào giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, khi mà sản xuất bằng máy móc ngày càng nhiều hơn, thì càng cần đến sự kết hợp xã hội ấy. “Vì bản thân tổng thể máy móc là một hệ thống gồm nhiều chiếc máy khác nhau, hoạt động cùng một lúc và kết hợp với nhau, cho nên sự hiệp tác dựa trên hệ thống máy móc đó cũng đòi hỏi phải phân chia những nhóm công nhân khác loại cho những máy móc khác loại” [9].
       Thứ tư, điều kiện tự nhiên. 
       C. Mác nhận định, “NSLĐ gắn liền với những điều kiện tự nhiên” [10]. Điều kiện tự nhiên được nhắc đến bao gồm: (i) Các loại tài nguyên dùng làm tư liệu sinh hoạt như khí hậu, mức độ màu mỡ của đất đai, dòng nước...; (ii) Các tài nguyên dùng làm tư liệu lao động như thác nước chảy xiết, sông ngòi mà thuyền bè có thể đi lại được, gỗ, kim loại, than đá... Sự tác động của loại thứ nhất đến NSLĐ được C. Mác cho là “tính chất màu mỡ của đất đai càng lớn và khí hậu càng thuận lợi, thì thời gian lao động cần thiết để duy trì và tái sản xuất ra người sản xuất lại càng ít” [11]. Do đó, giá trị của các tư liệu sinh hoạt cũng giảm xuống, nên giá trị của sức lao động giảm xuống, hay NSLĐ tăng lên. Về loại thứ hai - các loại tài nguyên được dùng làm tư liệu sản xuất, những nguồn tài nguyên này trong tự nhiên nhiều thì việc khai thác cũng thuận lợi hơn, tiêu tốn ít công sức hơn, và theo đó, giá trị của chúng cũng giảm xuống, hay NSLĐ đã tăng lên nhờ vào sự dồi dào của các loại tài nguyên thiên nhiên.
       Thứ năm, quan hệ sản xuất.
       Khi nghiên cứu về sự vận động của các hình thái KT-XH, C. Mác cho rằng hình thái KT-XH này được thay thế bằng một hình thái KT-XH khác, theo đó NSLĐ xã hội trong mỗi hình thái KT-XH mới lại có bước nhảy vọt cao hơn so với NSLĐ trong hình thái KT-XH cũ. Ngay trong từng giai đoạn phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì NSLĐ cũng có sự biến động tăng lên cùng với quá trình phát triển của quan hệ sản xuất ấy. Điều này đã được C. Mác chứng minh khi nghiên cứu về 03 giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản từ hợp tác giản đơn, đến công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, NSLĐ đã tăng lên liên tục trong 03 giai đoạn ấy. C. Mác phân tích, trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhà tư bản luôn hướng tới mục tiêu thu ngày càng nhiều giá trị thặng dư hơn. Nhưng do không thể kéo dài ngày lao động vượt quá khả năng lao động của người lao động và Đạo luật công xưởng cũng quy định rút ngắn thời gian ngày lao động, nên để có thể thu được nhiều giá trị thặng dư hơn, nhà tư bản phải rút ngắn thời gian lao động cần thiết để tái sản xuất sức lao động. Điều này lại phụ thuộc vào NSLĐ, nhưng “năng suất ấy lại phụ thuộc vào sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa” [12]. Như vậy, sự phát triển của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy NSLĐ không ngừng tăng lên dưới chủ nghĩa tư bản.
       Việt Nam – nhận diện cơ hội, thách thức tăng cường cạnh tranh quốc gia dựa trên năng suất lao động
       Việt Nam đánh dấu công cuộc “Đổi Mới” được khởi xướng vào năm 1986 với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam [13]. Tư tưởng chủ đạo của đường lối đổi mới kinh tế được khẳng định là: giải phóng mạnh mẽ mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác tốt và có hiệu quả mọi khả năng của đất nước, của mọi thành phần kinh tế; trên cơ sở phát huy các nguồn lực trong nước là chính, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút mạnh mẽ và có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài; hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý; phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và đổi mới quan hệ sản xuất (cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) nhằm bảo đảm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển. Mọi sự tăng trưởng và phát triển đều hướng tới “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Quá trình đổi mới đã chuyển đổi đất nước từng bước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, từ nền kinh tế khép kín, kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; làm gia tăng hiệu quả kinh tế, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tăng thứ hạng cạnh tranh trong hai thập kỷ qua, trong đó lực lượng lao động Việt Nam hiện có vị thế tốt để hưởng lợi từ việc đầu tư trực tiếp nước ngoài chuyển dịch ra khỏi Trung Quốc và trở thành trung tâm sản xuất kế tiếp của Châu Á.
       Thành tích cải thiện tăng trưởng với việc tăng năng suất và tạo công bằng xã hội, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức đối với Việt Nam trong quá trình phát triển. Từ năm 1990, theo số liệu thống kê, tăng trưởng GDP bình quân đầu người Việt Nam thuộc vào mức cao, tăng trưởng cũng rất ổn định và bao phủ rộng rãi, đem lại lợi ích cho tuyệt đại đa số người dân; việc giảm nghèo và cải thiện phúc lợi xã hội về nhiều mặt. Theo Báo cáo tổng quan Việt Nam 2035 của Ngân hàng Thế giới và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016), Việt Nam đang trên quỹ đạo tăng trưởng nhanh và thành quả trong quá khứ tạo niềm tin cho một khát vọng về mức tăng trưởng nhanh hơn trong khoảng 20 năm tới [14]. Muốn đạt được điều này, trước hết cần tập trung nhiều hơn vào nâng cao năng suất, hiện đang rơi vào xu thế suy giảm, trong đó có NSLĐ đã thách thức tính bền vững của mô hình tăng trưởng hiện tại vì lợi thế về chi phí lao động của Việt Nam dự kiến sẽ giảm một khi dân số già hóa và tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (KH&CN) và sự tăng trưởng năng suất nông nghiệp không cao, cùng với sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, sự thiếu đồng bộ giữa doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp trong nước. Đồng thời, những cải cách về thể chế không bắt kịp với cải cách về kinh tế. Do đó, cần tăng cường khả năng cạnh tranh quốc gia bằng cách tháo gỡ những vướng mắc có thể hạn chế tiềm năng tăng trưởng của quốc gia trong tương lai.
       Một số giải pháp tăng năng suất lao động ở Việt Nam từ vận dụng lý luận của C. Mác về các nhân tố tác động đến năng suất lao động
       Lý luận của C. Mác về các nhân tố tác động đến NSLĐ làm cơ sở quan trọng trong đề xuất các giải pháp căn cơ trong tăng NSLĐ của nền kinh tế Việt Nam nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong khu vực và thế giới, dưới góc độ quản lý nhà nước về kinh tế như sau:
       Một là, tập trung nguồn lực đầu tư hiệu quả cho giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao “trình độ khéo léo của người lao động”.
Xây dựng hệ thống cơ sở giáo dục, đào tạo các cấp với nguồn nhân lực chất lượng cao, trang bị cơ sở vật chất hiện đại, đủ sức đảm nhận nhiệm vụ giáo dục, đào tạo cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, tập trung nâng cấp về mọi mặt cho các trường đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề nhằm đáp ứng được nhu cầu lao động trình độ, tay nghề cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
       Tiếp tục thực hiện hiệu quả về “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và phát triển mạnh KH&CN, đổi mới sáng tạo” và “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)” [15].
       Hai là, tăng cường phát triển khoa học và công nghệ và khả năng ứng dụng vào quá trình sản xuất. 
       Đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích người dân, doanh nghiệp tích cực ứng dụng tối đa KH&CN, hiện đại hóa quá trình sản xuất nhằm tăng NSLĐ xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Để tăng NSLĐ của nền kinh tế, trước hết phải nâng cao NSLĐ của chính nội lực từng đơn vị sản xuất, kinh doanh thông qua chủ động đẩy mạnh đổi mới, sử dụng máy móc và ứng dụng KH&CN tiên tiến, hiện đại trong quá trình sản xuất. Các cơ chế, chính sách mà Nhà nước tập trung tiếp tục hoàn thiện thị trường KH&CN; tạo môi trường cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo trong sản xuất; giảm lãi suất cho các khoản vay đầu tư vào hiện đại hóa sản xuất; miễn giảm thuế nhập khẩu đối với các loại máy móc tiên tiến, hiện đại mà Việt Nam chưa sản xuất được; tạo hành lang pháp lý ngăn chặn việc sử dụng máy móc, công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, buộc các doanh nghiệp phải đổi mới, sử dụng công nghệ, máy móc hiện đại…
       Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả 04 giải pháp pháp triển KH&CN đã định hướng tại Đại hội XIII của Đảng, cụ thể: (i) Chú trọng phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị; (ii) Rà soát, sắp xếp lại hệ thống tổ chức KH&CN gắn với đổi mới toàn diện chính sách nhân lực KH&CN; (iii) Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, nhất là cơ chế tài chính, nhằm giải phóng năng lực sáng tạo của nhà khoa học, đưa nhanh tiến bộ KH&CN vào sản xuất, đời sống. Tăng cường liên kết giữa các tổ chức KH&CN với doanh nghiệp; (iv) Tăng cường hợp tác quốc tế về KH&CN, nhất là KH&CN cao trong điều kiện hội nhập quốc tế. [15]
       Ba là, thực hiện có hiệu quả việc chuyển dịch lao động giữa các ngành.
       Khơi thông hiệu ứng dịch chuyển, đồng thời tiếp tục tăng trưởng hiệu ứng nội ngành. Đối với Việt Nam, ảnh hưởng của hiệu ứng dịch chuyển đã giảm dần, thay vào đó là hiệu ứng nội ngành. Tuy nhiên, lao động của Việt Nam vẫn tập trung chủ yếu trong nhóm ngành Nông, Lâm và Thủy sản, cho thấy vẫn còn khả năng chuyển dịch lao động giữa các ngành. Việt Nam phải khơi thông hiệu ứng dịch chuyển, đồng thời tiếp tục tăng trưởng hiệu ứng nội ngành (tương tự như giai đoạn tăng trưởng năng suất cao ở các nước Đông Bắc Á). Việc tăng NSLĐ thông qua chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ rất phổ biến ở các quốc gia có mức độ phát triển thấp. Hiện nay, nước ta vẫn còn dư địa để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu nhằm tăng NSLĐ. Tuy nhiên, đó là giải pháp trước mắt và xu hướng này không thể kéo dài khi Việt Nam phát triển lên mức cao hơn, thu nhập ở khu vực nông thôn gia tăng, cơ cấu kinh tế ổn định sẽ làm giảm đáng kể dư địa cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động.
       Tiếp tục hỗ trợ thúc đẩy và tìm kiếm thị trường cho các ngành sản xuất của Việt Nam, đặc biệt khu vực tư nhân, để tạo thêm lực hút cho quá trình dịch chuyển cơ cấu lao động, từ đó tăng NSLĐ chung.
       Bốn là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách chính sách tiền lương, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và lãng phí.
       Đây là giải pháp trọng tâm nhằm làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, theo đó giải phóng sức sản xuất, tăng NSLĐ của nền kinh tế. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhất là thể chế về sở hữu; thể chế về phân phối; thể chế về phát triển kinh tế gắn với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh… Xác lập các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động phù hợp với sự phát triển của thị trường, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ. Cải cách chính sách tiền lương theo hướng gắn với sự thay đổi của giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng NSLĐ, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động. Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền rõ ràng, minh bạch; cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm các thủ tục hành chính không cần thiết và không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn, nhất là các điều kiện kinh doanh, thực hiện chính phủ điện tử nhằm hiện đại hóa quá trình tiếp nhận và trả hồ sơ; đồng thời, có giải pháp ngăn chặn, xử lý có hiệu quả tình trạng lợi dụng, lạm dụng quyền lực nhà nước để tham nhũng, tiêu cực và lãng phí, nhờ đó mà góp phần làm cho NSLĐ xã hội tăng lên.
       Trong điều kiện đẩy mạnh toàn cầu hoá, khu vực hoá, hội nhập quốc tế, tự do hóa thương mại và cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần nắm bắt cơ hội để phát triển KT-XH; đồng thời, cũng nỗ lực vượt qua thách thức, khó khăn, thông qua định hướng phát triển đúng đắn và giải pháp hiệu quả trong nâng cao năng suất, nhất là NSLĐ. Cải thiện, thúc đẩy tăng NSLĐ là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tăng NSLĐ đồng nghĩa với phát triển nhanh, bền vững, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và rút ngắn khoảng cách với các quốc gia trong khu vực. Đây cũng là vấn đề sống còn đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
       Tài liệu tham khảo:
[1] Asian Production Organization (2004), Total Factor Productivity Growth: Survey Report, Tokyo, 2004. ISBN: 92-833-7016-3.
[2] C. Mác và Ph. Ăng Ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 68.
[3] C. Mác và Ph. Ăng Ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 494.
[4] C. Mác và Ph. Ăng Ghen, Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 379.
[5] C. Mác và Ph. Ăng Ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 579.
[6] C. Mác và Ph. Ăng Ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 562.
[7] C. Mác và Ph. Ăng Ghen, Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 556-557.
[8] C. Mác và Ph. Ăng Ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 530.
[9] C. Mác và Ph. Ăng Ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 603.
[10] C. Mác và Ph. Ăng Ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 723.
[11] C. Mác và Ph. Ăng Ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 724.
[12] C. Mác và Ph. Ăng Ghen, Toàn tập, Tập 48, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.264, tr. 68.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987.
[14] Ngân hàng Thế giới & Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam (2016), Báo cáo tổng quan Việt Nam 2035.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 140, 141 - 142, 142, 166, 167, 167 – 168, 203 - 204, 232 - 233.
 
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây