Một số giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Trị hiện nay
- Thứ bảy - 05/12/2015 16:08
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Ths. Trần Đức Dương
Hiện nay, nếu xét trên bình diện chung thì Quảng Trị vẫn đang là một tỉnh nghèo, chậm phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với bình quân chung của cả nước. Để khắc phục tình trạng trên cần phải tạo sự đột phá đi lên từ tiềm năng lợi thế, huy động tối đa nội lực, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài nhằm đẩy nhanh quá trình phát triển trên tất cả các lĩnh vực, sớm hoà nhập vào nhịp độ phát triển của cả nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, trong đó, giải pháp về nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề cấp bách, mang tính chiến lược, có ý nghĩa lâu dài để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Những năm gần đây, Quảng Trị có tốc độ phát triển khá nhanh về kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm qua đạt mức tăng khá, GDP tăng bình quân năm sau cao hơn năm trước. Các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn so với các ngành khác. Số dự án của các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh cũng như số dự án có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều. Đó là điều kiện rất thuận lợi để tỉnh Quảng Trị tiếp tục phát triển kinh tế, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH. Chính vì vậy, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, nhất là lao động có trình độ kỹ thuật cao đã trở thành một nhu cầu cấp thiết và phải đi trước một bước. Trong những năm qua, công tác đào tạo đã có một số chuyển biến tích cực, đáp ứng một phần quan trọng nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tuy nhiên so với nhu cầu của sự phát triển các ngành công nghiệp trong hiện tại và thời gian tới, mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh thực tế là chưa đáp ứng được. Nhìn một cách tổng quát thì trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, thiếu đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật, công nhân lành nghề, chưa hình thành được đội ngũ lao động chất lược cao, để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế.
Vấn đề nổi bật hiện nay là việc đào tạo nhân lực của các trường và cơ sở đào tạo chưa thực sự thích hợp với quá trình phát triển của kinh tế. Một mâu thuẫn nảy sinh giữa nhu cầu nhân lực kỹ thuật cao và vấn đề đào tạo là trong lúc cấp thiết cần có nhân lực cho những ngành kinh tế công nghiệp công nghệ cao thì cơ cấu ngành nghề đào tạo lại không thay đổi hoặc chưa đào tạo. Chương trình đào tạo còn nhiều bất cập và nội dung đào tạo chưa thực sự gắn với thực tế sản xuất hoặc chưa phù hợp với công nghệ của các doanh nghiệp. Phần lớn các cơ sở đào tạo hiện nay đều có phát triển số lượng nhưng chủ yếu là đào tạo ngắn hạn và chỉ đào tạo những nghề có trình độ kỹ thuật thông thường. Nguồn nhân lực được đào tạo trong những năm qua chủ yếu mới đáp ứng được nhu cầu tạm thời, trước mắt là thị trường lao động với hình thức ngắn hạn có trình độ giản đơn. Về nội dung đào tạo còn trùng lặp về ngành nghề. Khả năng thực hành của các học viên còn yếu, hầu hết số học viên tốt nghiệp được tuyển vào các công ty xí nghiệp trong và ngoài tỉnh đều phải đào tạo bổ sung hoặc đào tạo lại.
Để giải quyết những khó khăn, hạn chế của công tác đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực kỹ thuật có chất lượng cao nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quá trình CNH, HĐH trong thời gian tới của tỉnh Quảng Trị, theo tôi, tỉnh cần thực hiện một số giải pháp sau đây:
1. Cần xây dựng chiến lược kế hoạch hóa mục tiêu đào tạo nhân lực một cách đồng bộ, gắn đào tạo với sử dụng, khắc phục dần tình trạng mất cân đối hiện nay về đào tạo Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, mất cân đối giữa các ngành nghề đào tạo. Điều kiện trước tiên là phải xây dựng một hệ thống thông tin thị trường lao động kỹ thuật nhằm xác định và cung cấp những thông tin chính xác, có căn cứ về nhu cầu của các ngành kinh tế cũng như về khả năng đào tạo. Hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động là cầu nối góp phần quan trọng trong việc giải quyết quan hệ giữa đào tạo và sử dụng. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động là biện pháp quan trọng và cần thiết. Thông qua các cơ sở dữ liệu về cung và cầu lao động kỹ thuật trên phạm vi toàn tỉnh cũng như ở từng khu vực, từng khu công nghiệp để có thể dự báo chính xác nhu cầu và lập kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh. Phải xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động kỹ thuật mới làm cho đào tạo gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội, với việc làm. Đây cũng chính là cơ sở để định hướng và lập kế họach phát triển nguồn nhân lực hàng năm không phải chỉ thực hiện riêng cho ngành giáo dục mà còn phục vụ cho các doanh nghiệp và chính bản thân người lao động trong tỉnh.
2. Nhanh chóng hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự nghiệp đào tạo phát triển đáp ứng nhu cầu nhân lực của tỉnh.
Trước hết, tỉnh cần có những kiến nghị bổ sung những chính sách phát triển cho hệ thống giáo dục đào tạo của vùng kinh tế trọng điểm phát triển nhanh về công nghiệp, nhất là các chính sách về đào tạo và thu hút nguồn nhân lực, chính sách tăng cường đầu tư tài chính, con người cho việc đào tạo nguồn nhân lực. Mặt khác, cần thực hiện việc giao quyền tự chủ về tài chính và đội ngũ cán bộ, giáo viên cho các trường chuyên nghiệp, dạy nghề để tạo điều kiện cho các trường chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo hàng năm theo yêu cầu thị trường lao động. Về quản lý vĩ mô, cần có chế độ ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống trường và cơ sở đào tạo nhân lực kỹ thuật của vùng trọng điểm phát triển kinh tế - xã hội, tạo cơ chế mở, cải tiến thủ tục hành chính trong việc quyết định thành lập các trường và cơ sở đào tạo để thực hiện nhanh việc xây dựng hệ thống đào tạo nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh.
3. Công tác đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh cần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống đào tạo chuyên nghiệp của tỉnh.
Đối với hình thức đào tạo, phải xác định lấy đào tạo tại các trường, các trung tâm và cơ sở dạy nghề là giai đoạn cơ bản còn đào tạo chuyên ngành phải gắn chặt với các nhà máy, xí nghiệp để đạt hiệu quả cao. Việc tổ chức đào tạo nguồn nhân lực cần có những giải pháp đồng bộ phối hợp giữa các ngành đào tạo và sử dụng nhân lực, phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các vùng, các tỉnh, giữa các cấp quản lý về đào tạo nhân lực và giữa các trường, cơ sở đào tạo của các địa phương và Trung ương về chương trình mục tiêu đào tạo trong từng giai đoạn cụ thể. Ngay từ bây giờ cần có sự điều chỉnh cần thiết về chương trình đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát triển của từng ngành của vùng kinh tế trọng điểm. Cần có qui hoạch phát triển thêm mạng lưới các trường, cơ sở đào tạo từ nhiều nguồn lực.
4. Tiếp tục thực hiện công tác xã hội hoá trong đào tạo, nhằm huy động được nhiều nguồn lực đầu tư, phát triển đào tạo, dạy nghề, kể cả nguồn lực từ nước ngoài. Tạo điều kiện để các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo. Cần phải đầu tư tích cực về đổi mới trang thiết bị phục vụ đào tạo. Một vấn đề quan trọng trong việc tìm nguồn vốn đầu tư, ngoài ngân sách nhà nước, cần phải thể chế hóa công tác xã hội hoá giáo dục về đào tạo. Các cấp quản lý Nhà nước phải có cơ chế về sự liên kết, quản lý và khuyến khích, ưu tiên thu hút vốn đầu tư và công nghệ đào tạo từ các doanh nghiệp, công ty, nhất là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài cho công tác đào tạo nguồn nhân lực. Mặt khác, phải chú ý việc đào tạo ngay từ chính các cơ sở sản suất của các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp.
Chính quyền tỉnh cần tập trung đầu tư xây dựng các trường mà nền kinh tế cần nhưng chi phí cho trang thiết bị dạy học đòi hỏi vốn lớn, các thành phần kinh tế khác không có điều kiện đầu tư. Tỉnh cần phải đầu tư xây dựng một số trường hoặc trung tâm đào tạo với qui mô lớn, hiện đại đủ sức đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ theo chuẩn của các nước trong khu vực. Cần phải đầu tư mạnh mẽ hơn để nâng cấp các cơ sở đào tạo hiện có và thành lập thêm các cơ sở mới, hiện đại nhằm đáp ứng tốt nhu cầu đào tạo.
5. Một vấn đề có tính chất quyết định của giáo dục và đào tạo là đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí. Đây là khâu đột phá quan trọng, không chỉ đối với giáo dục phổ thông, mà cả giáo dục chuyên nghiệp. Ngành giáo dục đào tạo cần được sự hỗ trợ tích cực của các ngành, các cấp, nhất là trong việc tạo dư luận ủng hộ, cấp kinh phí để đào tạo nâng cao trình độ giáo viên, đào tạo lại số giáo viên chưa đạt chuẩn. Đối với giáo viên dạy nghề còn thiếu nghiêm trọng, cần tiếp tục bổ sung từ nhiều nguồn, trong đó nguồn sinh viên Quảng Trị tốt nghiệp loại giỏi cần được đào tạo tiếp để làm giáo viên, có chính sách thu hút giáo viên nghề trình độ cao từ nơi khác đến. Quan tâm cử giáo viên đi đào tạo, nghiên cứu ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy trong đội ngũ giáo viên, sử dụng công nghệ thông tin và các phương tiện nghe nhìn khác hỗ trợ cho công tác giảng dạy. Đối với giáo viên dạy nghề cần đặc biệt chú ý đến kĩ năng thực hành, cập nhật cho được thực tế là nội dung quan trọng trong hoạt động giảng dạy.
6. Đối với ngành giáo dục, cần phải đổi mới mạnh mẽ công tác quản lí, cần phải tích cực nghiên cứu và thực hiện việc liên thông đào tạo giữa các trường Trung học chuyên nghiệp với Cao đẳng, các cơ sở Đại học. Trước mắt là liên thông với các trường, cơ sở đào tạo trong nước và từng bước liên kết với các trường và cơ sở đào tạo của các nước trong khu vực. Đó là việc liên thông về chương trình, hình thức đào tạo theo hướng nâng cấp trình độ đào tạo theo từng cấp độ cho học sinh, sinh viên.
Thành lập ở cấp tỉnh một tổ chức nghiên cứu, điều hành về xây dựng kế họach đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực (phối hợp giữa Sở Giáo dục - Đào tạo, Sở Lao động Thương binh - Xã hội, Sở công nghiệp, Sở Nội vụ và Ban quản lý các khu Công nghiệp của tỉnh). Thành lập các hội đồng hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp. Xây dựng quỹ tín dụng học nghề, hỗ trợ trang thiết bị, xây dựng cơ chế phối hợp đào tạo thực hành của các trường Trung cấp nghề, Cao đẳng, các cơ sở Đại học và các doanh nghiệp có trình độ công nghệ cao. Hợp đồng đào tạo theo địa chỉ giữa các trường dạy nghề và các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có trách nhiệm trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
7. Một vấn đề đáng quan tâm nữa về giảp pháp đào tạo nhân lực là, trong giai đoạn phát triển kinh tế xã hội theo xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề hợp tác về đào tạo nguồn nhân lực có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc hợp tác có mục đích thu hút được các nguồn vốn đầu tư cho công tác đào tạo dội ngũ kỹ thuật viên trình độ cao. Điều quan trọng là hợp tác đào tạo sẽ giúp cho việc mở rộng hoặc đi sâu đào tạo nhân lực cho những ngành nghề có công nghệ mới, phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế công nghiệp, những ngành nghề mà hiện tại và tương lai gần tỉnh chưa có điều kiện đào tạo được. Bên cạnh việc đào tạo, quá trình hợp tác quốc tế cũng sẽ tạo điều kiện để các ngành kinh tế trong tỉnh tăng cường việc nâng trình độ kỹ thuật, khả năng tiếp cận và xử lý các qui trình công nghệ của các ngành kinh tế mũi nhọn, hiện đại, góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Nội dung của việc hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực tập trung vào việc xây dựng những Trung tâm đào tạo Kỹ thuật cao ở những vùng phát triển mạnh về kinh tế công nghiệp, dịch vụ như: Khu kinh tế Thương mại đặc biệt Lao Bảo, Hành lang kinh tế Đông - Tây, khu công nghiệp Nam Đông Hà, Quán Ngang... Mặt khác, thông qua hợp tác, tỉnh có thể lựa chọn và gửi đi nước ngoài hoặc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành nghề sẽ phát triển theo qui hoạch trong tương lai.
Quảng Trị trong những năm qua đã đạt được bước tăng trưởng kinh tế khá. Do đó, lực lượng lao động ngày càng thu hút nhiều hơn, song phải thấy rằng nguồn nhân lực kỹ thuật - một yêu cầu hết sức cấp thiết đang ngày càng trở thành một yếu tố quan trọng và bức xúc cần phải đầu tư thực sự để đáp ứng về số lượng và chất lượng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là vừa phải có những giải pháp mở rộng qui mô đào tạo, mặt khác phải đặc biệt chú trọng có những chế độ chính sách đầu tư cho công tác đào tạo nhân lực để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa của tỉnh, đưa Quảng Trị vào quỷ đạo phát triển nhanh, bền vững và toàn diện cùng với cả nước./