Điểm mới về thời hiệu khởi kiện trong Bộ luật Dân sự năm 2015
- Thứ hai - 25/01/2016 09:19
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Thừa kế là một chế định lớn trong Luật Dân sự. Trong chế định này, quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản nhằm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế là một trong những nội dung được đông đảo người dân quan tâm vì có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống của họ. Tuy nhên, trong những năm qua, quy định thời hiệu khởi kiện về thừa kế là một trong những điểm nghẽn trong việc thực hiện hưởng quyền dân sự của công dân.
Ngày 24 tháng 11 năm 2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua Bộ luật Dân sự( BLDS) năm 2015. Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật này có những quy định mới về thời hiệu khởi kiện nhằm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Cụ thể:
Khi đề cập đến thời hiệu khởi kiện về thừa kế, Điều 645 BLDS năm 2005 quy định “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản,…là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, việc chia thừa kế ở Việt Nam phải tuân theo thời hiệu do pháp luật quy định-10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết) đối với mọi tài sản. Hết thời hạn này, người thừa kế không còn quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản để xác nhận quyền thừa kế của mình. Điều này cũng có nghĩa là: Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện của công dân trong trường hợp nội dung đơn kiện là khởi kiện về thừa kế khi đã hết thời hiệu 10 năm theo quy định.
Thực tiễn thi hành quy định trên cho thấy:
Một mặt, thời hiệu khởi kiện về thừa kế 10 năm là quá ngắn để thực hiện quyền khởi kiện. Trong thực tế, có đương sự thực hiện quyền khởi kiện khi đã hết thời hiệu pháp luật quy định. Khi đó, quyền lợi của người thừa kế tài sản không được pháp luật bảo vệ. Để được hưởng di sản thừa kế, không ít đương sự đã có những hành xử trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội.
Mặt khác, Bộ luật Dân sự năm 2005 không quy định cụ thể phương án xử lý những di sản thừa kế khi hết thời hiệu 10 năm nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền rất lúng túng trong việc quyết định số phận pháp lý cũng như số phận thực tế của những di sản này.
Để giải quyết những vướng mắc nói trên, BLDS năm 2015 đã đưa ra quy định mới về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 623: “thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, theo Bộ luật Dân sự năm 2015, việc chia thừa kế vẫn phải theo thời hiệu do pháp luật quy định. Tuy nhên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã phân ra hai trường hợp cụ thể: đối với bất động sản là 30 năm, đối với động sản là 10 năm. Điều đó có nghĩa là: đối với tài sản là bất động sản, thời hiệu này được kéo dài hơn so với BLDS năm 2005, điều này phù hợp với thực tế hơn, các quyền dân sự của công dân được bảo vệ triệt để hơn, các mâu thuẫn trong tranh chấp dân sự về di sản có điều kiện được giải quyết phù hợp và thỏa đáng hơn.
Đặc biệt, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định rất rõ ràng phương án giải quyết hậu quả đối với những di sản thừa kế đã hết thời hiệu khởi kiện 30 năm hoặc 10 năm. Đó là: “Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này”.
Căn cứ vào quy định trên có thể thấy, số phận của những di sản hết thời hiệu khởi kiện đã được định đoạt:
Thứ nhất, nếu người đang quản lý di sản là người thừa kế thì di sản thuộc quyền sở hữu của họ;
Thứ hai, nếu người đang quản lý di sản không phải là người thừa kế thì phân thành 2 trường hợp:
- Nếu người đang quản lý di sản là người đang chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai và phù hợp pháp luật thì di sản thuộc quyền sở hữu của người người này;
- Nếu không có người chiếm hữu, người được lợi về tài sản thì di sản thuộc về Nhà nước.
Quy định trên vừa tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giải quyết các tranh chấp về di sản thừa kế, vừa nhằm khai thác triệt để công dụng của tài sản.
Quyền khởi kiện, trong đó có khởi kiện về thừa kế là quyền của người dân, được nhà nước và pháp luật bảo hộ. Những quy định mới về quyền khởi kiện trong BLDS năm 2015 là công cụ pháp lý để bảo vệ các quyền dân sự nói chung, quyền tài sản nói riêng của người dân một cách triệt để./.
Ngày 24 tháng 11 năm 2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua Bộ luật Dân sự( BLDS) năm 2015. Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật này có những quy định mới về thời hiệu khởi kiện nhằm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế. Cụ thể:
Khi đề cập đến thời hiệu khởi kiện về thừa kế, Điều 645 BLDS năm 2005 quy định “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản,…là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, việc chia thừa kế ở Việt Nam phải tuân theo thời hiệu do pháp luật quy định-10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm người để lại di sản chết) đối với mọi tài sản. Hết thời hạn này, người thừa kế không còn quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản để xác nhận quyền thừa kế của mình. Điều này cũng có nghĩa là: Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện của công dân trong trường hợp nội dung đơn kiện là khởi kiện về thừa kế khi đã hết thời hiệu 10 năm theo quy định.
Thực tiễn thi hành quy định trên cho thấy:
Một mặt, thời hiệu khởi kiện về thừa kế 10 năm là quá ngắn để thực hiện quyền khởi kiện. Trong thực tế, có đương sự thực hiện quyền khởi kiện khi đã hết thời hiệu pháp luật quy định. Khi đó, quyền lợi của người thừa kế tài sản không được pháp luật bảo vệ. Để được hưởng di sản thừa kế, không ít đương sự đã có những hành xử trái pháp luật, gây mất trật tự xã hội.
Mặt khác, Bộ luật Dân sự năm 2005 không quy định cụ thể phương án xử lý những di sản thừa kế khi hết thời hiệu 10 năm nên cơ quan nhà nước có thẩm quyền rất lúng túng trong việc quyết định số phận pháp lý cũng như số phận thực tế của những di sản này.
Để giải quyết những vướng mắc nói trên, BLDS năm 2015 đã đưa ra quy định mới về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 623: “thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, theo Bộ luật Dân sự năm 2015, việc chia thừa kế vẫn phải theo thời hiệu do pháp luật quy định. Tuy nhên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã phân ra hai trường hợp cụ thể: đối với bất động sản là 30 năm, đối với động sản là 10 năm. Điều đó có nghĩa là: đối với tài sản là bất động sản, thời hiệu này được kéo dài hơn so với BLDS năm 2005, điều này phù hợp với thực tế hơn, các quyền dân sự của công dân được bảo vệ triệt để hơn, các mâu thuẫn trong tranh chấp dân sự về di sản có điều kiện được giải quyết phù hợp và thỏa đáng hơn.
Đặc biệt, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định rất rõ ràng phương án giải quyết hậu quả đối với những di sản thừa kế đã hết thời hiệu khởi kiện 30 năm hoặc 10 năm. Đó là: “Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này”.
Căn cứ vào quy định trên có thể thấy, số phận của những di sản hết thời hiệu khởi kiện đã được định đoạt:
Thứ nhất, nếu người đang quản lý di sản là người thừa kế thì di sản thuộc quyền sở hữu của họ;
Thứ hai, nếu người đang quản lý di sản không phải là người thừa kế thì phân thành 2 trường hợp:
- Nếu người đang quản lý di sản là người đang chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai và phù hợp pháp luật thì di sản thuộc quyền sở hữu của người người này;
- Nếu không có người chiếm hữu, người được lợi về tài sản thì di sản thuộc về Nhà nước.
Quy định trên vừa tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giải quyết các tranh chấp về di sản thừa kế, vừa nhằm khai thác triệt để công dụng của tài sản.
Quyền khởi kiện, trong đó có khởi kiện về thừa kế là quyền của người dân, được nhà nước và pháp luật bảo hộ. Những quy định mới về quyền khởi kiện trong BLDS năm 2015 là công cụ pháp lý để bảo vệ các quyền dân sự nói chung, quyền tài sản nói riêng của người dân một cách triệt để./.