TRƯỜNG CHÍNH TRỊ LÊ DUẨN

https://truongleduan.quangtri.gov.vn:443


Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ và sự vận dụng vào xây dựng nền công vụ liêm chính, chuyên nghiệp, phục vụ Nhân dân trong giai đoạn hiện nay


 
TS. Dương Hương Sơn -
Hiệu trưởng Trường Chính trị Lê Duẩn
 
      Tóm tắt: Đạo đức cách mạng của người cán bộ là một nội dung luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm, trăn trở, ngay cả trước lúc đi xa Người vẫn không quên căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Cho đến nay, những giá trị về đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự, ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Trong giai đoạn hiện nay, khi toàn Đảng, toàn dân ta đang nỗ lực xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, thì yêu cầu cấp thiết là phải vận dụng một cách sáng tạo những giá trị ấy vào thực tiễn để cải cách chế độ công vụ, xây dựng nền công vụ liêm chính, chuyên nghiệp, phục vụ Nhân dân.
      Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; đạo đức công vụ; phục vụ Nhân dân.
      Có thể khẳng định, đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên là một trong những cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Với Người, đạo đức cách mạng là gốc của cán bộ, đảng viên; là nền tảng của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người từng chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[1].
      1. Nâng cao đạo đức công vụ - Yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay
      Chúng ta không thể phủ nhận, chính nhờ có một đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức cách mạng, có niềm tin vào chủ nghĩa Mác – Lênin, niềm tin tuyệt đối vào con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn, Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân ta, dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ thành lập ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nám Á, đến thống nhất non sông và thành công trong công cuộc đổi mới. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, tuy vậy, với sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, trong quá trình thực thi công vụ, tình trạng lệch chuẩn đạo đức công vụ ở một bộ phận cán bộ, công chức ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực thi công vụ, làm giảm lòng tin của Nhân dân với chế độ.
      Chỉ lấy ví dụ qua các đại án đã được đưa ra ánh sáng như: đại án Mobifone mua AVG; đại án Việt Á; đại án “chuyến bay giải cứu”;… đã “cuốn” hàng trăm quan chức ở Trung ương và địa phương vào vòng lao lý, trong đó có những người từng là Ủy viên Trung ương Đảng. Nhất là các đại án liên quan đến đại dịch Covid- 19 chúng ta mới thấy nó thật đáng phải quan tâm về đạo đức của những người là công bộc của Nhân dân. Họ kiếm chác, làm ăn trên nỗi đau của đồng bào, trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, như người đứng đầu Đảng đã phải thốt lên: Vi phạm cả pháp lý và đạo lý, không ai có thể chấp nhận!
      Chúng ta cần xác định rõ, hoạt động công vụ là một dạng hoạt động xã hội đặc biệt, là hoạt động của những người mang quyền lực Nhà nước, trên cơ sở quyền lực ấy để thực hiện, xử lý các mối quan hệ công việc và do đó, nếu thiếu đi những yếu tố đảm bảo sự tin cậy, minh bạch, kiểm soát sẽ dễ dẫn đến sự tha hóa quyền lực, lợi dụng quyền lực công để trục lợi, vun vén cho lợi ích cá nhân. Ngay từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta xác định, tham nhũng là một nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hành vi này có đặc điểm là lợi dụng chức vụ, quyền hạn - nói cách khác là sử dụng quyền lực công được trao, để vụ lợi, mưu lợi cá nhân.
      Nhiều trường hợp cán bộ bị kỷ luật đảng và xử lý trước pháp luật thời gian qua có nguyên nhân gốc rễ là không chú ý giữ gìn đạo đức cách mạng, đã vi phạm Điều lệ Đảng, Quy định về những điều đảng viên không được làm, vì danh lợi cá nhân mà bất chấp kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước. Bên cạnh đó, trong bối cảnh thế giới thay đổi nhanh chưa từng thấy, có nhiều bất định, bất ổn, đột biến và rủi ro khó lường như hiện nay, các thế lực xấu, thù địch, phản động lợi dụng việc một số cán bộ, đảng viên vi phạm, bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự để đẩy mạnh bôi xấu, xuyên tạc, tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta, thì chúng ta lại càng ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng Đảng về đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, đạo đức cách mạng, có năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới.
      Bên cạnh đó, yêu cầu của cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay là phải đạt mục tiêu xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Vì vậy, đạo đức công chức cần được chuẩn mực hóa trở thành bắt buộc mang tính nguyên tắc dựa trên pháp luật. Cán bộ thực thi công vụ phải nhiệt huyết với công việc, liêm khiết, lương tâm trong sáng, dũng cảm và công minh. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu để xây dựng, hoàn thiện và nâng cao đạo đức cách mạng nói chung, đạo đức công vụ nói riêng là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, như Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh “nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày”.
      2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ và giải pháp vận dụng vào xây dựng nền công vụ liêm chính, chuyên nghiệp, phục vụ Nhân dân trong giai đoạn hiện nay
      Vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên được Hồ Chí Minh nêu lên, luận giải sâu sắc trong nhiều tác phẩm, tiêu biểu như: Sửa đổi lối làm việc (1947), Chủ nghĩa cá nhân (1948), Cách xem xét việc đời và cách tu dưỡng của người cách mạng (1949), Cần, kiệm, liêm, chính (1949), Chống quan liêu, tham ô, lãng phí (1952), Đạo đức lao động (1952), Cần và kiệm (1952), Chống bệnh quan liêu (1953), Phải theo đúng kỷ luật của Đảng (1954), Chớ kiêu ngạo, phải khiêm tốn (1954), Đạo đức cách mạng (1955), Người cán bộ cách mạng (1955), Đạo đức cách mạng (1958), Tiêu chuẩn của người đảng viên (1959), Cần kiệm (1959), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (1969)…
      Ngày 30/5/1949 trên báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người[2]
      Và để cụ thể hóa quan điểm trên, trong Sắc lệnh số 76/SL Quy chế công chức Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 20/5/1950 tại Điều 2 về nghĩa vụ xác định rõ: “Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Quan điểm này được đưa vào các bản Hiến pháp và được cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật nước ta, như: Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức; Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Tiếp công dân và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Tuy vậy, với thực tế như được trình bày ở trên cho thấy cần phải có sự kết hợp đồng bộ nhiều yếu tố, nhiều giải pháp trong xây dựng đạo đức công vụ mới đáp ứng yêu cầu xây dựng nền công vụ hiện đại, liêm chính, chuyên nghiệp phục vụ Nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
      Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nền công vụ liêm chính, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc cải cách chế độ công vụ hiện nay, là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta tiếp tục xây dựng những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm không ngừng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
      Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nền công vụ liêm chính, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc cải cách chế độ công vụ hiện nay, là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta tiếp tục xây dựng những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để vận dụng có hiệu quả tư tưởng ấy của Người vào cải cách chế độ công vụ, cần tập trung thực hiện các nội dung cơ bản:
           Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức về đạo đức cách mạng, về đạo đức công vụ.
      Đưa việc quán triệt và tổ chức thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trở thành công việc thường xuyên, hằng ngày của mỗi tổ chức, cá nhân, đơn vị với nhiều nội dung phong phú và thiết thực, gắn với chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên.
      Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hiện thân sinh động, mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng, như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng khái quát: "Bốn chữ Cần, Kiệm, Liêm, Chính - là cốt lõi đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đạo đức ấy của Bác là “tinh hoa của dân tộc”, là “lương tâm của thời đại”. Bác Hồ là tấm gương sáng ngời về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Bác là điển hình của sự nhất quán giữa lời nói và việc làm, giữa tư tưởng và lối sống, suốt đời vì nước vì dân", là tấm gương sáng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Tổng Bí thư Trường Chinh trong Báo Nhân Dân, số 8, ngày 13/5/1951 đã viết: "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đó là đại cương đạo đức của Hồ Chủ tịch, mà toàn dân ta, trước hết đồng chí chúng ta cần phải học tập và thực hành".
      Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải trở thành động lực tinh thần thúc đẩy người cán bộ, công chức thấm nhuần chuẩn mực đạo đức cách mạng, khao khát hành động với trách nhiệm và lương tâm của một người đảng viên chân chính. Về nguyên tắc, cán bộ, công chức luôn phải đủ đức, đủ tài, nhưng đức phải là gốc và cần ý thức sâu sắc rằng, nhân dân mới đích thực là chủ sở hữu quyền lực và phục vụ nhân dân là trách nhiệm, nghĩa vụ và lý tưởng cao đẹp nhất của người cán bộ cách mạng. Nhận thức, ý thức của mỗi cán bộ, công chức về liêm chính phải đủ sâu, đủ mạnh để chuyển biến thành hành động thực hành liêm chính, thành khả năng đủ sức chối từ, “miễn dịch” trước những cám dỗ, việc làm sai trái, phi pháp. Đội ngũ cán bộ, công chức cần phải nêu cao tinh thần tiên phong, gương mẫu trong thực thi công vụ, không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao đạo đức công vụ. 
      Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về đạo đức công vụ.
      Luật Cán bộ, công chức (năm 2008) quy định: “Cán bộ, công chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ”, tuy vậy chưa xác định rõ nội hàm của những chuẩn mực đó. Đồng thời, việc quy định về khen thưởng, kỷ luật và xử lý vi phạm về chuẩn mực đạo đức ở nhiều văn bản dể dẫn đến cách hiểu thiếu thống nhất, không đồng bộ. Hệ thống pháp luật thống nhất, hoàn chỉnh, đồng bộ, hiện đại là cơ sở để đánh giá, giám sát hoạt động của cán bộ, công chức, làm tiêu chuẩn để đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật nhưng cũng đồng thời là cơ sở để xử lý nghiêm những cán bộ, công chức vi phạm chuẩn mực pháp lý về thực thi công vụ và thi hành pháp luật, tạo sức răn đe và giáo dục. Do đó, tiếp tục nghiên cứu và cụ thể hóa những quan điểm của Bác về đạo đức công vụ và các quy định của Đảng, như: Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ”; Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XIII “về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”; Quy định số 114-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII “về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”;… vào hệ thống pháp luật Việt Nam. Xây dựng cơ chế đồng bộ trong khen thưởng, kỷ luật, tuyển dụng, sử dụng, giám sát, đánh giá, bảo vệ cán bộ công chức dám nghĩ, dám làm, dám hy sinh vì lợi ích chung, đồng thời gia tăng các biện pháp giám sát, kiếm soát việc sử dụng quyền lực công, phòng chống tham nhũng. Một mặt, khuyến khích tính năng động, sáng tạo, đổi mới của cán bộ, công chức; trọng dụng người tài, thực hiện tốt nguyên tắc công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm; mặt khác, cải cách chính sách tiền lương, bảo đảm cuộc sống, tạo động lực cho mỗi cán bộ, công chức phấn đấu và cống hiến.
          Thứ ba, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng đội ngũ công chức.
      Trong công tác tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ cần chú trọng yếu tố phẩm chất đạo đức, tài năng và trí tuệ. Phát huy tính tích cực của việc thi tuyển công khai, nhằm lựa chọn công chức có năng lực vào làm việc. Đối với những chức vụ quan trọng cần lấy ý kiến một cách thận trọng, công khai, dân chủ trong Nhân dân. Phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội, của người dân trong việc nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Đảng trực tiếp lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức; vì vậy, muốn có nền công vụ liêm chính thì tổ chức đảng các cấp và mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức thực hành liêm chính, thực hiện nghiêm đạo đức công vụ.        
          Thứ tư, phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị. 
      Trong thời gian qua, một số cán bộ là người đứng đầu đã rơi vào suy thoái về đạo đức và bị xử lý kỷ luật, kể cả bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, đề cao tấm gương liêm chính và nêu cao trách nhiệm gương mẫu của người đứng đầu cơ quan, đơn vị là giải pháp đột phá trong việc chấn chỉnh đạo đức công vụ hiện nay. Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương” đặt ra yêu cầu người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải ý thức rõ về “vai trò thủ lĩnh” của mình trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, cũng như trong việc tạo ra hình mẫu người cán bộ mẫn cán, liêm chính để làm gương cho cán bộ dưới quyền và nhân dân.
          Thứ năm, thực hiện có hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030, tiến hành cải cách chế độ công vụ, công chức; loại bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà khi giải quyết công việc cho người dân và doanh nghiệp.
      Tiếp tục rà soát, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy định về quy trình, thủ tục hành chính; công khai, minh bạch các quy định về trình tự, thủ tục hành chính, nhằm tạo điều kiện cho nhân dân giám sát có hiệu quả để kịp thời ngăn ngừa cán bộ, công chức có những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực trong quá trình thực thi công vụ.
          Thứ sáu, tập trung vào công tác cán bộ và minh bạch hóa nền công vụ.
Hoàn thiện các quy định về tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, luân chuyển, đánh giá, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Phải xây dựng cơ chế miễn nhiệm, cho từ chức hoặc buộc từ chức đối với những cán bộ, công chức làm việc kém hiệu quả, có dấu hiệu bất liêm, bất chính và có phiếu tín nhiệm thấp; đồng thời, thiết kế lại bộ máy quản lý từ Trung ương đến cơ sở để tránh sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Mỗi cán bộ, công chức được giao chức trách, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể với quyền hạn, trách nhiệm tương ứng. Thực hiện tốt công tác thi đua - khen thưởng, kỷ luật để kịp thời răn đe các hành vi vi phạm pháp luật; đồng thời, tôn vinh các điển hình mẫn cán công vụ cùng với cải cách chính sách tiền lương căn cứ theo hiệu quả công việc để cán bộ, công chức yên tâm làm việc.
          Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực.
      Quyền lực được thể hiện bằng các quyết định do người nắm giữ quyền lực ban hành. Thực tế cho thấy, quyền lực không được kiểm soát tất yếu sẽ dẫn tới lạm quyền, lộng quyền, chuyên quyền. Kiểm soát quyền lực thực chất là kiểm soát hành vi của những người có chức, có quyền, nên muốn đạt kết quả thì cần có sự kết hợp của nhiều hình thức kiểm soát và sự phối hợp, quyết tâm, đồng lòng của nhiều chủ thể. Vì thế, sau Đại hội XII của Đảng, vấn đề kiểm soát quyền lực đã được đặt ra như một giải pháp trọng yếu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Kết luận số 14-KL/TW Bộ Chính trị khóa XIII xác định: “Không để lọt những người không xứng đáng, không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhưng cũng không bỏ sót những cán bộ thực sự có đức, có tài, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết[3].
      Do đó cần chú trọng kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương; tăng cường kiểm tra, giám sát, chống chạy chức, chạy quyền. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp sao cho chặt chẽ, đồng bộ; rà soát kỹ lưỡng, không có “kẽ hở”, tránh để một số đối tượng lợi dụng, trục lợi. Việc giao quyền, phân quyền cho cán bộ, công chức phải đi đôi với tăng cường cơ chế giải trình và có chế tài đủ mạnh để buộc cán bộ, công chức phải thực hành liêm chính công vụ.
          Thứ tám, phát huy vai trò của báo chí, truyền thông trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực.
      Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, vai trò của báo chí, các phương tiện truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải thông tin và trong giám sát việc thực thi công vụ của mỗi cán bộ, công chức. Vì vậy, báo chí và các phương tiện truyền thông sẽ là phương tiện hữu hiệu, sắc bén để kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi tiêu cực của cán bộ, công chức.
Đồng thời, quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, “nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước”, thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò của người dân trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức. Có cơ chế phù hợp để người dân giám sát nhằm hạn chế tình trạng cán bộ, công chức vi phạm đạo đức công vụ.
          Thứ chín, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát của Đảng, của các cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động của cán bộ, công chức để kịp thời ngăn chặn, chấn chỉnh các hành vi sai trái, vi phạm pháp luật; khen thưởng, động viên kịp thời những tấm gương điển hình tiên tiến, những cán bộ, công chức luôn nêu cao tinh thần đạo đức công vụ, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
          Công cuộc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã và đang đặt ra yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức một cách toàn diện, cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, phẩm chất, năng lực và phương pháp, tác phong công tác, nhất là việc nâng cao đạo đức công vụ trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định một trong những nội dung lớn để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới...; khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm.
      Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh luôn là “kim chỉ nam” cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam học tập và noi theo. Học tập và vận dụng tư tưởng của Bác, yêu cầu đặt ra là người cán bộ khi thực hiện công vụ cần có đạo đức công vụ, thể hiện ở các chuẩn mực cơ bản: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có tinh thần trách nhiệm cao với công việc; chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ; có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu trong công việc; có tinh thần thân ái, hợp tác với đồng nghiệp trong thực hiện công việc. Mỗi người cán bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm túc việc nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức; thực hiện xây đi đôi với chống và phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Đây là những điều cơ bản nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, về những gì cán bộ, đảng viên phải phấn đấu thực hiện cho bằng được. Tư tưởng đó có giá trị rất lớn, là ánh đuốc soi đường trong mọi thời đại, cho tất cả cán bộ, đảng viên, nhất là trong thời kỳ hiện nay, khi chúng ta đang ra sức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về “một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”./.
 
 
 

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.292
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t.6, tr. 117
[3] Bộ Chính trị (2021): Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây